Từ khi Phật Thích Ca Mâu Ni lại thành Xá Vệ
thuyết pháp, giáo hóa đại chúng thì nhân dân toàn thành này trở nên có đạo đức
có lễ độ lại biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, khiến cho nước Xá Vệ biến thành
một cực lạc quốc.
Tin này truyền đi gần xa, có một số người
khác đạo ở nước La Kiệt Kỳ rất khâm phục uy tín Ðức Phật, liền không quản đường
xá xa xôi, cố tìm đến nước Xá Vệ để cầu Phật dạy bảo. Nhưng trong khi chưa gặp
được Ðức Phật thì bỗng xảy ra một chuyện rất trái ý ở giữa đường.
Số là nước Xá Vệ ở vào xứ nóng, thường có
nhiều rắn độc, một khi rắn đã cắn phải người thì người ấy tức khắc chết liền,
không có cách nào cứu sống được.
Hôm đó, người viễn khách vừa tới ngoài thành,
ngồi nghỉ dưới bóng cổ thụ, nhìn xuống bên đường, thấy hai người, một già một
trẻ, đang cuốc đất. Bỗng đâu có con rắn độc núp trong cỏ nhảy ra mổ chết người
ít tuổi, người nhiều tuổi bỏ cuốc chạy lại thấy người ít tuổi đã tắt thở thì
hơi lộ nét buồn rồi thản nhiên quay lại chỗ cũ cuốc đất.
Viễn khách thấy thái độ ấy làm lạ, liền tiến
lại bên cạnh ông già mà hỏi rằng:
- Này cụ! Thanh niên vừa chết kia có là con
cháu hay là gia nhân cụ?
Ông già đáp cách tự nhiên:
- Hắn là con tôi.
- Ủa, lệnh lang bị rắn cắn chết sao cụ lại
không kêu gào khóc lóc thảm thiết như người xứ chúng tôi thường làm?
- Nó là con trai tôi đó, nhưng bây giờ đã
chết rồi, thiết tưởng dù có khóc than chỉ là thêm phiền não mà cũng chẳng cứu
sống lại được. Vậy khóc than có ích lợi gì?... Trầm ngâm một lúc, ông lão nói
tiếp:
- Ông ạ! Con người ở đời trước sau thế nào
cũng chết, khác nào như mọi sự vật, có thành tựu thời phải có hoại không, đó là
hiện tượng tự nhiên của tuần hoàn, nếu mà lúc sống gây nhiều nhân thiện thì sau
có báo ứng tốt, nhược bằng gây nhiều nhân ác thì có ác báo không sai. Nay đã
chết rồi, thì dầu gì chăng nữa cũng là thừa.
Ông già nói xong thấy khách suy nghĩ đờ đẫn
người ra liền hỏi: - Phải chăng ông định tiến vào thành? Tôi muốn cảm phiền ông
giúp cho một việc, phỏng có được không?
- Có việc gì xin cụ cứ nói!
- Thế thì hay lắm! Ðây: nhà tôi ở ngay cổng
thành đi vào, quẹo sang bên phải bỏ gian đầu đến gian thứ hai ấy chính là nhà
tôi. Vậy xin ông, khi đi qua, ghé vào nói giúp với bà nhà tôi rằng: Ðứa
con đã chết, vậy trưa nay chỉ đem một xuất cơm cho tôi ăn mà thôi.
Viễn khách nghe ông già dặn thì điếng người,
vừa đi vừa tự nghĩ: Ông già này keo quá, con đã chết mà còn đếm xỉa đến cả bữa
cơm… Thật cả thế gian này cũng không đâu có người cha đến như thế! Kịp khi qua
cửa thành, quẹo sang bên phải, cách hai nhà, quả nhiên thấy bà cụ vừa vặn đứng
ở ngoài cửa. Viễn khách liền thi lễ và nói:
- Thưa bà, con trai bà bị rắn cắn chết, ông
có nhắn tôi về bảo bà chỉ cần đem một suất cơm cho ông thôi.
Bà nghe khách nói xong thì tỏ vẻ buồn rầu
thoáng qua nét mặt rồi trân trọng cảm tạ khách, viễn khách lấy làm lạ lùng hết
sức và tự hỏi: “Tại sao bà nghe tin con chết mà không kinh hoảng hoặc té xỉu
người đi???”. Liền hỏi luôn:
- Này bà, xin thứ lỗi cho tôi hỏi câu đường
đột: Bà không thương xót lệnh lang hai sao?
Bà lão thong thả đáp:
- Thưa ông! Cái đạo con cái với cha mẹ là tự túc nhân nghiệp báo
nên mới có sự thác sinh vào nhà chớ không phải là do cha mẹ mời vào mà được,
đến khi họ chết, cũng là do mãn nhân, mãn nghiệp mà họ đi, nên cũng không thể
lưu họ lại. Cha mẹ khác nào như người chủ quán trọ chiều nay có khách lại ngủ
đỡ, sáng mai hay ngày kia khách lại ra đi, chủ quán không thể lưu lại. Ấy sự
liên quan giữa cha mẹ và con cái cũng thế đó. Vậy thì: Có thương tiếc hay kêu
gào khóc lóc liệu có thể cứu sống lại được người đã chết không? Hay chỉ là gây
thêm phiền não mà chẳng có ích gì?
Nghe câu trả lời của bà cụ, khách rất hoang mang cho rằng vợ chồng
ông già này quả thật là xứng đôi vừa lứa. Cả hai đều có một tấm lòng sắt đá
giống nhau. Giữa lúc này, từ phía trong nhà, một người con gái đi ra, bà
lão giới thiệu là chị gái người vừa chết. Khách liền hỏi ngay:
- Em trai cô vừa bị rắn cắn chết, chắc cô thương xót lắm nhỉ?
- Thương xót là lẽ thường, nhưng thương xót có thể cứu người em
sống lại được chăng? Tôi tưởng: Chị em một nhà, khác nào như các cây gỗ ở rừng
hạ xuống đóng thành cái bè rồi thả vào nước cho trôi. Nếu sông hồ phẳng lặng
thì bè trôi mãi, bằng có cơn phong ba bão táp nổi lên đánh tan chiếc bè thì mỗi
cây trôi đi mỗi ngả, có bao giờ còn hy vọng lắp lại liền với nhau? Tình chị em
cũng thế. Ðó là nhân duyên kiếp trước hợp rồi sinh vào một cửa. Tuổi thọ cũng
tùy nghiệp báo, có người ngắn có người dài, và ngày chết cũng là vô thường,
không sao biết trước được. Nay em tôi chết, mặc dầu tôi là chị hắn, nhưng tôi
có làm gì được đâu? Huống chi là khóc với lóc, có phải không ông?
Người này đang nói, bỗng ở đằng sau, thấy một người đàn bà nữa
tiến ra, khi nghe cô chị nói xong thì kêu lên:
- Thế ra chồng tôi đã chết rồi?
- Ðúng đấy! Chồng bà đã bị rắn cắn chết ở ngoài đồng. Vậy bà đau
buồn lắm thì phải?
- Thưa ông! Chồng chết ai không đau buồn, nhưng cái đạo vợ chồng ở
đời khác nào như đôi chim trong rừng, tối đến cùng ngủ một cành, sáng ngày lại
bay đi kiếm ăn, nếu có duyên thì trở về cùng nhau, nhược bằng gặp tai họa thì
mỗi con bay đi một ngả. Ấy nghĩa vợ chồng ở đời là thế, mỗi người có một số
mạng riêng, không làm sao mà nói được rằng: Chồng chết thay cho vợ, hay
vợ chết thay cho chồng. Như thế khóc lóc phỏng có ích gì?
Viễn khách nghe lời mọi người trong gia đình này nói ra thì lòng
sanh hoài nghi cho thế tục nhân tâm ở xứ này, liền hối hận đã mất công tìm đến
xứ này để học cái hay cái tốt của Ðức Phật giáo hóa dân chúng; nào ngờ dân
chúng như thế hỏi còn học được cái gì ở đây? Chi bằng lui gót trở về quê hương
xứ sở là hơn. Nhưng hồi lâu lại nghĩ: Mình chưa được gặp Ðức Phật đã nóng nảy
phê bình một vài thái độ của dân, rồi vội vã quay về, như thế là hành động nông
nổi chưa chín chắn, chắc sau này có điều phải ân hận… Vậy ta phải đến thẳng
tịnh xá tại vườn Kỳ Viên, để được gặp Ðức Phật đã rồi sẽ hay. Nghĩ rồi, khách
đi thẳng một hơi tới Tịnh xá và được ra mắt Phật.
Khi thấy Phật, khách khoan tay cúi đầu thi lễ, đoạn lui sang ngồi
một bên, không nói không rằng: Ðức Phật đọc rõ ý kiến trong lòng khách, nhưng
cũng cất tiếng từ bi hỏi:
- Tại sao viễn khách có bộ dạng buồn rầu?
- Bạch Thế Tôn, nhân vì con hy vọng một việc mà chưa được như ý
nên trong lòng con không được vui vẻ.
- Có việc gì trái với bản tâm, tưởng cứ nói ra không nên để trong
lòng phải ưu sầu không thể giải quyết được việc gì hết!
Lúc đó người khách mới thuật hết đầu đuôi câu chuyện đã gặp ở
ngoài thành, cuối cùng khách phê bình thái độ của gia đình nông dân ấy là trái
với tình đời.
Phật nghe xong tủm tỉm cười dạy rằng:
- Ðiều mà viễn khách cho rằng trái với tình đời là thuộc về “nhân
tính”. Còn chân lý thì không những không được thể hiện theo “nhân tính”
mà còn phải tước bỏ nhân tính cho đến hết. Ðó mới thực là điều khẩn yếu của kẻ
tu hành xuất gia.
Nghĩ một chút, Ngài nói tiếp:
- Viễn khách đây vì chưa hiểu chân lý, nên thấy gia đình nhà nông
kia hành động như thế thì vội cho là “phản tình đời”. Nhưng đứng về mặt chân lý
mà xét, thì những người ấy quả nhiên là không có hành động lỗi lầm, vì họ biết
rõ thế nào là “cuộc đời vô thường”, nghĩa là con người đời không thể nào nắm
giữ vĩnh viễn được cái “sắc thân” làm sinh mệnh bấy hủy bất diệt của mình. Kìa
xem từ xưa tới nay, dù là phàm hay Thánh, cũng không ai có thể tránh được cái
chết.
Nếu vì một cái chết mà cả nhà theo nhau khóc lóc đến phát đau,
phát ốm thì sự khóc lóc ấy hỏi có ích lợi gì cho cả người sống lẫn người chết?
Vả chăng, con người ngay từ lúc sơ sinh, đã nắm chắc lấy cái chết trong tay
rồi. Nay thấy sự chết mà gây phiền não trong lòng quá đỗi thì ta “mê hoặc” chưa
hiểu cái lẽ sống chết. Nên biết rằng “sống” và “chết” là hai đầu mối luôn
luôn tiếp diễn và luân chuyển không lúc nào ngừng. Hễ đã biết rõ được như thế
là đã giải thoát rồi.
Viễn khách nghe Ðức Phật giảng giải cho nghe một hồi thì lòng
thoát nhiên tỉnh ngộ. Liền nguyện xin ở lại làm đệ tử của Phật và qui y Phật
pháp tức thì. Viễn khách này sau trở nên một vị Tỳ kheo rất tinh tiến.
PHẠM NGỌC KHUÊ
Thân như bóng chớp chiều tà,
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng
rời
Sá chi suy thịnh việc đời,
Thịnh suy, suy thịnh, sương rơi
đầu cành.